Nên học Việt Nam
Đó lời của TS K.L. Heong (Viện Nghiên
cứu lúa Quốc tế - IRRI). Theo TS Heong, so với các nước trong khu vực
cũng đã và đang bị rầy nâu, VL, LXL gây hại như Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia…, Việt Nam đang là nước thành công nhất trong việc khống chế
dịch bệnh này. Việt Nam đã chọn con đường đúng là giảm sự lạm dụng thuốc
BVTV, do đó hạn chế được tối đa diện tích lúa bị cháy rầy. Trong khi
đó, ở các nước trên, người ta vẫn coi việc dùng thật nhiều thuốc BVTV là
phương cách tốt nhất để phòng trừ rầy nâu, VL, LXL, nên dịch bệnh không
những chưa được khống chế mà đang ngày càng bùng phát mạnh mẽ hơn. Ở
Trung Quốc, mỗi năm có khoảng 1 triệu ha bị thiệt hại. Ở Thái Lan, mật
độ rầy nâu hiện đã tăng 100 ngàn lần so với năm 2009. Do đó, mỗi khi đến
các nước Thái Lan, Indonesia…, TS Heong đều đưa ra lời khuyên là nên
học cách phòng chống rầy nâu, VL, LXL của Việt Nam.
|
|
Phun thuốc trừ rầy ở ĐBSCL
|
Việc giảm sự lạm dụng thuốc BVTV trong
phòng trừ rầy nâu, VL, LXL ở các tỉnh phía Nam được thể hiện khá rõ qua
lượng thuốc đã sử dụng trong những năm cao điểm. Theo TS Nguyễn Hữu
Huân, Phó Cục trưởng Cục BVTV, trong các năm từ 2006 đến 2009, tổng diện
tích lúa được phun trừ rầy tập trung là 2.174.626 ha, với tổng lượng
thuốc chống dịch đã cấp phát từ nguồn Chính phủ là 562,6 tấn. Tính ra
lượng thuốc phun trên 1 ha là 0,26 kg, thấp hơn mức khuyến cáo là 3 kg.
Có được kết quả này là do toàn vùng ĐBSCL đã áp dụng thành công trên
diện rộng các biện pháp tổng hợp khác như sử dụng giống xác nhận, gieo
sạ đồng loạt né rầy, “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm”, nấm xanh, nấm
trắng, rút gọn thời vụ gieo trồng, đảm bảo thời gian cách ly, giãn vụ…
theo chỉ đạo chung của Bộ NN-PTNT.
Cũng theo ông Huân, trong 5 năm qua,
nhiều mô hình phòng chống rầy nâu, VL, LXL rất có hiệu quả đã được xây
dựng. Điển hình như: mô hình cộng đồng quản lý tổng hợp rầy nâu, VL, LXL
tại 7 tỉnh, TP ở ĐBSCL do FAO tài trợ; nhân rộng mô hình trình diễn của
FAO với tên gọi “Cộng đồng quản lý rầy nâu, bệnh VL, LXL” bằng phương
pháp xuống giống tập trung, đồng loạt theo lịch né rầy, ứng dụng “3
giảm, 3 tăng”, tại Tiền Giang, Bến Tre, Long An, Đồng Tháp, Kiên Giang,
An Giang, Vĩnh Long…; mô hình sử dụng hóa chất BVTV để xử lý giống và
phun định kỳ trừ rầy di trú đầu vụ tại ấp 4 (xã Mỹ Phú, Thủ Thừa, Long
An) và huyện Ba Tri, Bến Tre; mô hình xuống giống tập trung, đồng loạt
theo lịch né rầy, dâng nước ngập thân lúa mới sạ để che chắn không cho
rầy di trú gây hại ở xã Thuận Hưng (huyện Thốt Nốt, Cần Thơ) và ấp Thới
Bình (thị trấn Cờ Đỏ, huyện Cờ Đỏ, Cần Thơ); mô hình gieo mạ che chắn
lưới, đánh giá hiệu quả thuốc xử lý hạt giống, thuốc sinh học trừ rầy
nâu trên lúa mùa đặc sản, đánh giá tuyển chọn các giống lúa chống chịu
rầy nâu, VL, LXL của Viện lúa ĐBSCL; mô hình phòng trừ rầy nâu bằng
thuốc sinh học trên lúa mùa cao sản của Sở NN-PTNT Sóc Trăng; mô hình “1
phải, 5 giảm” ở An Giang; mô hình “công nghệ sinh thái” ở Cái Bè và Cai
Lậy của Tiền Giang và An Giang…
Sự thành công của Việt Nam sau 5 năm
phòng chống dịch bệnh rầy nâu, VL, LXL (2006-2011) được thể hiện rõ nét
nhất qua việc diện tích lúa nhiễm VL, LXL đã giảm rất mạnh. Năm 2006,
tổng diện tích lúa nhiễm VL, LXL ở các tỉnh phía Nam lên tới trên 175
ngàn ha (chiếm 4,18% diện tích gieo sạ), trong đó có gần 100 ngàn ha
nhiễm nặng và trên 25 ngàn ha phải tiêu hủy. Từ năm 2007 đến 2010, diện
tích nhiễm VL, LXL liên tục giảm xuống: năm 2007 có 75.248 ha nhiễm
(19.610 ha nhiễm nặng), năm 2008 có 17.516 ha nhiễm (8.704 ha nặng), năm
2009 có 2.489 ha nhiễm (757 ha nặng), năm 2010 chỉ có 525,5 ha nhiễm
(119,4 ha nặng). Đến năm 2011, diện tích nhiễm bệnh tăng mạnh so với
2009 và 2010 nhưng chỉ ở mức trên 11 ngàn ha, chủ yếu là do nông dân nôn
nóng xuống giống lúa xuân hè quá sớm đúng vào lúc rầy di trú với mật số
cao. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Bùi Bá Bổng khẳng định: “Việt Nam đã thoát
được đại dịch rầy nâu, VL, LXL, qua đó góp phần quan trọng vào việc tăng
thêm bình quân khoảng 1 triệu tấn lúa mỗi năm trong 5 năm qua”.
Phải quản lý tốt rầy nâu
Tuy đã khống chế khá tốt dịch bệnh rầy
nâu, VL, LXL, nhưng trong những năm tới, Việt Nam vẫn cần phải đề cao
cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với dịch bệnh này. Bởi theo TS Heong, các
nước xung quanh đang tiềm ẩn nguy cơ bùng phát đại dịch. Ở Thái Lan, dự
báo trong năm nay sẽ có một trận dịch rầy nâu rất lớn. Ở Trung Quốc, rầy
nâu vẫn đang tiếp tục hoành hành trên diện rộng. Bởi vậy, TS Nguyễn Hữu
Huân cho rằng, Việt Nam đang bị bao vây tứ phía bởi dịch rầy nâu từ
Trung Quốc, Thái Lan và các nước khác.
Trong đó, Thái Lan và Indonesia đang
có hiện tượng lúa bị cháy rầy trên diện rộng. Rầy từ những nước này hoàn
toàn có thể theo gió để vào nước ta. Trong khi đó, hiện nay, ở các tỉnh
phía Nam, vẫn còn tới 72% lượng lúa giống chưa phải là giống xác nhận,
hầu hết các giống lúa ở miền Bắc đều bị nhiễm rầy, ở phía Nam mới có
khoảng 30% giống hơi kháng rầy…, tức là nguy cơ nhiễm bệnh vẫn rất lớn.
Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Bùi Bá
Bổng, chúng ta đã làm tốt công tác phòng chống rầy nâu di trú bằng các
biện pháp như bố trí lại mùa vụ, gieo sạ đồng loạt né rầy…, do đó đã tạo
nên 1 đổi thay lớn trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Tuy nhiên việc quản lý
rầy tại chỗ vẫn chưa tốt. Bằng chứng diện tích nhiễm rầy hàng năm vẫn
còn khá cao, trên 250 ngàn ha. Nguyên nhân là do nhiều nông dân vẫn lạm
dụng thuốc BVTV vì chưa được tư vấn đúng hoặc bị ảnh hưởng bởi các đại
lý thuốc BVTV. Nông dân vẫn sử dụng dư thừa lượng phân đạm, hạt giống.
Giống lúa kháng rầy vẫn đang được cải thiện rất chậm.
Hàng năm chúng ta cho ra nhiều giống
lúa nhưng mới nặng về số lượng mà chưa đạt về chất lượng (chẳng hạn tính
đa dạng di truyền của các giống lúa rất kém). Do đó, trong thời gian
tới, mục tiêu của cả ngành nông nghiệp là phải quản lý rầy tại chỗ sao
cho hiệu quả hơn, đồng thời quản lý rầy lưu trú cũng phải làm tốt hơn
trước thông qua các giải pháp như hoàn thiện mùa vụ, gieo sạ đồng loạt
né rầy, quản lý toàn diện chuỗi sản xuất lúa theo hướng hiện đại, bền
vững.
theo:nongnghiep.vn
|